Vitamin d huyết thanh là gì? Các công bố khoa học về Vitamin d huyết thanh

Vitamin D huyết thanh điều chỉnh sự hấp thụ canxi và phốt pho, ảnh hưởng đến sức khỏe xương, hệ miễn dịch, nồng độ insulin, và hệ thần kinh. Có hai dạng chính: Vitamin D2 và D3, được đo bằng 25(OH)D. Vitamin D có thể tổng hợp qua ánh sáng mặt trời và từ thực phẩm. Thiếu hụt vitamin D gây nhiều bệnh lý như còi xương, loãng xương, tim mạch, đái tháo đường type 2, và rối loạn tự miễn dịch. Đo lường qua xét nghiệm máu và bổ sung dưới hướng dẫn y tế là cần thiết để duy trì sức khỏe toàn diện.

Giới thiệu về Vitamin D huyết thanh

Vitamin D huyết thanh là một trong những thành phần quan trọng trong cơ thể con người, giúp điều chỉnh sự hấp thụ canxi và phốt pho. Vitamin D không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của xương mà còn ảnh hưởng đến hệ miễn dịch, điều hòa nồng độ insulin, và góp phần vào sức khỏe hệ thần kinh.

Các dạng của Vitamin D huyết thanh

Vitamin D chủ yếu tồn tại dưới dạng hai chất: Vitamin D2 (ergocalciferol) và Vitamin D3 (cholecalciferol). Trong cơ thể, hai dạng này chuyển hóa thành 25-hydroxyvitamin D, còn gọi là 25(OH)D, là chỉ số chính để đo lượng vitamin D trong huyết thanh.

Nguồn cung cấp Vitamin D

Vitamin D có thể được tổng hợp tự nhiên trong da thông qua tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, đặc biệt là tia UVB. Ngoài ra, vitamin D cũng có thể được cung cấp qua chế độ ăn uống với các thực phẩm giàu vitamin D như cá hồi, cá thu, trứng, và sữa bổ sung vitamin D.

Tầm quan trọng của Vitamin D huyết thanh

Vitamin D huyết thanh đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì nồng độ canxi và phốt pho, là những khoáng chất cần thiết cho sự phát triển và bảo vệ của xương. Thiếu hụt vitamin D có thể dẫn đến các bệnh lý như còi xương ở trẻ em và loãng xương ở người lớn tuổi.

Hậu quả của thiếu hụt Vitamin D huyết thanh

Sự thiếu hụt Vitamin D huyết thanh có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, ngoài ảnh hưởng đến sức khỏe xương, thiếu hụt vitamin D còn liên quan đến một loạt các bệnh lý khác như bệnh tim mạch, đái tháo đường type 2, và các chứng rối loạn tự miễn dịch.

Cách đo lường và chuẩn đoán

Mức độ vitamin D trong huyết thanh được đánh giá thông qua xét nghiệm máu đo nồng độ 25(OH)D. Giá trị này giúp các bác sĩ đánh giá liệu một người có bị thiếu vitamin D hay không, từ đó đề xuất các biện pháp điều chỉnh phù hợp.

Biện pháp bổ sung Vitamin D huyết thanh

Việc bổ sung vitamin D có thể được thực hiện thông qua các chế độ dinh dưỡng bổ sung, sử dụng thực phẩm chức năng chứa vitamin D, hoặc điều chỉnh lối sống như tăng cường tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, việc bổ sung cần được thực hiện dưới sự hướng dẫn của chuyên gia y tế để tránh các nguy cơ ngộ độc vitamin D do dư thừa.

Kết luận

Vitamin D huyết thanh là yếu tố không thể thiếu cho sức khỏe toàn diện của con người. Hiểu biết và duy trì mức độ vitamin D hợp lý thông qua chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh có thể đem lại nhiều lợi ích sức khỏe dài lâu. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả, mọi biện pháp điều chỉnh và bổ sung vitamin D nên được tham khảo ý kiến chuyên gia y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vitamin d huyết thanh":

Nghiên cứu nồng độ vitamin D và IL-17 huyết thanh trước và sau điều trị và mối liên quan của chúng với biểu hiện lâm sàng ở bệnh nhân trứng cá thông thường mức độ trung bình và nặng
Mục tiêu: Xác định nồng độ vitamin D (Vit D) và IL-17 huyết thanh ở bệnh nhân trứng cá thông thường (TCTT) mức độ trung bình và nặng trước và sau điều trị bằng uống isotretinoin và vitamin D;  phân tích mối liên quan của chúng với biểu hiện lâm sàng của bệnh. Đối tượng và phương pháp: 70 bệnh nhân TCTT mức độ trung bình và nặng điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh và 70 người đối chứng khoẻ mạnh. Phương pháp tiến cứu, mô tả cắt ngang có đối chứng. Kết quả: Nồng độ vitamin D và IL-17 ở bệnh nhân TCTT mức độ trung bình và nặng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với người khoẻ mạnh đối chứng và liên quan có ý nghĩa thống kê với giới tính, độ tuổi, thói quen sử dụng kem chống nắng, nhưng không khác biệt theo mức độ nặng của bệnh trứng cá. Sau điều trị, nồng độ Vit D huyết thanh tăng và IL-17 huyết thanh giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị ở cả nhóm sử dụng isotretinoin phối hợp vitamin D đường uống lẫn nhóm chỉ sử dụng isotretinoin đơn thuần, tuy nhiên không có sự khác biệt khi so sánh 2 nhóm này sau điều trị với nhau. Kết luận: Nồng độ vitamin D và IL-17 huyết thanh ở bệnh nhân TCTT mức độ trung bình và nặng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm người khoẻ mạnh. Có sự thay đổi nồng độ vitamin D và IL-17 huyết thanh trước và sau điều trị với Isotretinoin và vitamin D đường uống.
#Bệnh trứng cá thông thường #vitamin D #IL-17
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG THIẾU VITAMIN D3 (25-OH) HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN ĐAU CỘT SỐNG THẮT LƯNG MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả hình ảnh siêu âm Doppler xuyên sọ (TCD) trong chẩn đoán dị dạng thông động-tĩnh mạch não (AVM) ở bệnh nhân chảy máu não do vỡ dị dạng thông động-tĩnh mạch não. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán là dị dạng thông động-tĩnh mạch não có biến chứng chảy máu có làm siêu âm Doppler xuyên sọ được điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai từ 10/2019 đến 07/2021. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân AVM vỡ là 43±14,7 tuổi, tỷ lệ nam/nữ = 1,27/1. Bệnh nhân vào viện vì buồn nôn, nôn chiếm tỷ lệ 97,2%, đau đầu chiếm 94,4%, liệt nửa người chiếm 50%. TCD phát hiện động mạch nuôi ổ dị dạng so với phương pháp chụp mạch đạt 65%. Nguồn cấp máu cho ổ dị dạng từ động mạch não giữa chiếm 52,78%. Ổ dị dạng được nuôi bằng 1 đến 3 cuống nuôi (chiếm 91,67%), ổ dị dạng có một tĩnh mạch dẫn lưu duy nhất chiếm 72,2% và là những ổ dễ vỡ. Tỷ lệ phát hiện được dị dạng động mạch não giữa trên siêu âm Doppler xuyên sọ chiếm 89,47%. Siêu âm Doppler xuyên sọ có tỷ lệ phát hiện ổ dị dạng có kích thước trung bình và lớn lần lượt là 93,75% và 100%. Tốc độ dòng chảy bên nuôi ổ dị dạng của động mạch não giữa có tốc độ tăng hơn bên đối diện. Kết luận: Độ tuổi hay gặp nhất của các bệnh nhân AVM vỡ là trên 40 tuổi chiếm tỷ lệ 63,9%; tuổi trung bình 43 ± 14,7. Bệnh gặp ở cả hai giới với tỷ lệ nam/nữ là 1,27/1. Động mạch não giữa tham gia cấp máu cho ổ dị dạng chiếm 52,78%. TCD là phương pháp hữu ích để chẩn đoán các dị dạng thông động tĩnh mạch não nó có độ nhạy cao với các AVM có kích thước trung bình và lớn.
#Dị dạng thông động tĩnh mạch não vỡ #siêu âm Doppler xuyên sọ
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG THIẾU VITAMIN D3 (25-OH) HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN ĐAU CỘT SỐNG THẮT LƯNG MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 1 - 2021
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tình trạng thiếu Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh ở bệnh nhân đau cột sống thắt lưng mạn tính. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có so sánh nội nhóm trên 82 bệnh nhân đau cột sống thắt lưng mạn tính. Kết quả: Tỷ lệ nữ/nam là 2,9/1;  tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 67,6 ± 12,7 tuổi. Nồng độ Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh trung bình là 19,8 ± 7,7 ng/ml; trong đó tỷ lệ bệnh nhân thiếu nặng chiếm 53,7% và thiếu vừa là 39,0%. Mức độ thiếu Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh liên quan có ý nghĩa thống kê với p<0,05 bao gồm: giới tính, tình trạng hút thuốc lá, tình trạng uống rượu (ở nam giới), triệu chứng yếu cơ trên lâm sàng, mức độ hạn chế sinh hoạt (chỉ số Oswestry), giảm mật độ xương cột sống ở nữ giới. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tình trạng thiếu Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh ở bệnh nhân đau cột sống thắt lưng mạn tính rất phổ biến và có liên quan với một số triệu chứng cơ năng của bệnh.
#vitamin D #đau cột sống thắt lưng
NỒNG ĐỘ VITAMIN B12 TRONG HUYẾT THANH BỆNH NHÂN MÀY ĐAY MẠN TÍNH TỰ PHÁ
Tạp chí Da liễu học Việt Nam - Số 35 - Trang 80-85 - 2022
Mục tiêu: Xác định nồng độ vitamin B12 toàn phần và vitamin B12 dạng hoạt động (holotranscobalamin – holoTC) trong huyết thanh của bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát tại khu vực TP.Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/2020 đến tháng 06/2020 bằng phương pháp mô tả, cắt ngang có so sánh với nhóm đối chứng. Tổng số có 56 mẫu máu được thu thập từ 45 bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát và 11 người khỏe mạnh được định lượng nồng độ vitamin B12 toàn phần và vitamin B12 dạng hoạt động bằng phương pháp miễn dịch điện hóa phát quang (ECLIA), sử dụng thang điểm UAS4 để đánh giá hoạt độ bệnh trong 4 ngày liên tiếp Kết quả: Nồng độ vitamin B12 toàn phần trong nhóm bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát là 478,4 pmol/L (khoảng tứ phân vị 404 - 579,7) và nhóm người khỏe mạnh là 719,7 pmol/L (khoảng tứ phân vị 615,9 - 815,4). Nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC), trong nhóm bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát và nhóm người khỏe mạnh lần lượt là 83,8 pmol/L (khoảng tứ phân vị 64,1 - 156) và 155,3 pmol/L (khoảng tứ phân vị 105,1 - 187). Có mối tương quan âm, mức độ mạnh giữa nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) và các nhóm điểm hoạt độ mày đay UAS4 (hệ số tương quan Spearman -0,58, p<0,001). Kết luận: Nồng độ vitamin B12 toàn phần và nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) đều thấp hơn so với nhóm người khỏe mạnh. Đặc biệt, có mối tương quan âm, mức độ mạnh giữa nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) và điểm hoạt độ mày đay. Thời gian nhận bài: 23/02/2022Ngày phản biện: 12/03/2022Ngày được chấp nhận: 20/03/2022
#mày đay mạn tính tự phát #vitamin B12 #vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) #điểm hoạt độ mày đay
5. KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ VITAMIN D HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI LỌC MÀNG BỤNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THỐNG NHẤT ĐỒNG NAI
Mở đầu: Lọc màng bụng là phương pháp điều trị thay thế thận được bệnh nhân tự thực hiện ngoại trú tại nhà. Vitamin D có vai trò quan trọng đối với sức khỏe con người. Thiếu vitamin D liên quan đến chức năng nhiều cơ quan trong cơ thể như nhận thức, miễn dịch, tim mạch và nội tiết. Thiếu vitamin D làm trầm trọng hơn tình trạng bệnh thận mạn giai đoạn cuối, liên quan đến tỉ lệ sống còn của bệnh nhân, gây ra hàng loạt rối loạn xương, bất thường chất khoáng và vôi hóa mạch máu. Mục tiêu: Xác định nồng độ, tỉ lệ thiếu vitamin D huyết thanh và mối liên quan giữa thiếu vitamin D huyết thanh với một số yếu tố ở bệnh nhân lọc màng bụng. Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Nồng độ Vitamin D trung bình ở bệnh nhân LMB là 20,29 ± 7,98 ng/ml, thấp nhất là 1,69 ng/ml và cao nhất là 47,17 ng/ml. Tỉ lệ thiếu vitamin D là 94,59 %. Nồng độ vitamin D và Albumin máu có mối tương quan thuận với nhau (r = 0,48 và p < 0,001). Có mối tương quan nghịch giữa nồng độ vitamin D và PTH máu ( r = - 0,25 và p < 0,05). Không có mối liên quan giữa nồng độ vitamin D với tuổi, BMI, thời gian LMB, Hb, Calci, phospho và Protein máu. Kết luận: Tỉ lệ thiếu vitamin D ở bệnh nhân LMB rất cao, đa số bệnh nhân thiếu vitamin D đều có đau cơ và chuột rút. Sự giảm Albumin và tăng PTH máu có liên quan với tình trạng thiếu vitamin D.
#Suy thận mạn giai đoạn cuối #lọc màng bụng #nồng độ vitamin D.
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ VITAMIN D HUYẾT THANH VỚI HÀNH VI TRÁNH NẮNG VÀ SỬ DỤNG KEM CHỐNG NẮNG
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ vitamin D huyết thanh với hành vi tránh nắng và sự thay đổi nồng độ vitamin D huyết thanh sau khi sử dụng kem chống nắng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là sinh viên và học viên sau đại học Đại Học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh Nghiên cứu gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 là nghiên cứu cắt ngang, khảo sát mối liên quan giữa nồng độ vitamin D huyết thanh với các hành vi tránh nắng. Giai đoạn 2 là nghiên cứu can thiệp, đối tượng nghiên cứu được sử dụng kem chống nắng SPF50+ trong 3 tháng và đánh giá sự thay đổi nồng độ vitamin D huyết thanh. Kết quả nghiên cứu: Giai đoạn 1 có 110 người tham gia. Nồng độ vitamin D huyết thanh trung bình là 22,82 ± 5,73 ng/mL. Tỉ lệ người thiếu vitamin D là 31,8%. Tỉ lệ thiếu vitamin D ở nhóm nữ (46,3%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với tỉ lệ thiếu vitamin D ở nam (46,3% so với 23,2%; p = 0,01). Nồng độ vitamin D huyết thanh ở người thường xuyên ở trong bóng râm thấp hơn so với người không thường xuyên ở trong bóng râm (p = 0,039). Giai đoạn 2 có 69 người tham gia. Sau 3 tháng sử dụng kem chống nắng, nồng độ vitamin D huyết thanh ở nữ thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với trước khi sử dụng (p = 0,003). Kết luận: Người có thói quen đứng trong bóng râm có nồng độ vitamin D huyết thanh thấp hơn. Ở nữ, việc sử dụng kem chống nắng có thể liên hệ đến sự giảm nồng độ vitamin D huyết thanh. Thời gian nhận bài: 01/10/2022Ngày phản biện: 21/10/2022Ngày được chấp nhận: 02/11/2022
Nồng độ 25-Hydroxyvitamin D huyết thanh và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhi viêm phổi tại Bệnh viện E
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 183 Số 10 - Trang 90-97 - 2024
Khảo sát nồng độ 25(OH)D huyết thanh ở trẻ mắc viêm phổi và một số yếu tố liên quan, nhận xét mối liên quan giữa nồng độ 25(OH)D với mức độ nặng của viêm phổi. Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 93 bệnh nhi từ 01 tháng đến 60 tháng tuổi mắc viêm phổi điều trị tại Khoa Nội Nhi tổng hợp - Bệnh viện E từ tháng 5/2023 đến tháng 6/2024. Kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi trung bình của trẻ là 21,8 ± 14,61 tháng, nhóm trẻ dưới 24 tháng tuổi nhập viện nhiều nhất chiếm 61,3%, viêm phổi nặng chiếm tỷ lệ 32,3%. Nồng độ 25(OH)D trung bình là 33,3 ± 14,47 ng/mL. Có 12,9% trẻ viêm phổi có nồng độ 25(OH)D huyết thanh thấp ≤ 20 ng/mL. Tỷ lệ trẻ mắc viêm phổi trên 24 tháng tuổi thiếu vitamin D chiếm 66,7% nhiều hơn so với nhóm trẻ dưới 24 tháng tuổi (33,3%). Trẻ viêm phổi có nồng độ 25(OH)D thấp có nguy cơ bị viêm phổi nặng cao gấp 3,53 lần nhóm có nồng độ 25(OH)D bình thường. Trẻ viêm phổi có nồng độ 25(OH)D huyết thanh thấp có nguy cơ mắc viêm phổi nặng cần phối hợp điều trị kháng sinh nhiều hơn.
#Viêm phổi #viêm phổi nặng #nồng độ 25(OH)D
Bước đầu nghiên cứu nồng độ vitamin D huyết thanh và ảnh hưởng đến kết quả điều trị ở bệnh nhân lao phổi mới AFB(+) tại Bệnh viện 74 Trung ương
Mục tiêu: Nghiên cứu nồng độ 25(OH)D3 trong huyết thanh và ảnh hưởng đến kết quả sau 2 tháng điều trị thuốc kháng lao ở bệnh nhân lao phổi mới AFB(+). Đối tượng và phương pháp: 100 bệnh nhân lao phổi mới AFB(+) tại Bệnh viện 74 Trung ương từ tháng 6 - tháng 12/2017, gồm 2 nhóm: Nhóm có nồng độ 25(OH)D3 bình thường (nhóm I) và nhóm có nồng độ 25(OH)D3 giảm (nhóm II). Kết quả: Giảm nồng độ 25(OH)D3 trong huyết thanh đã gặp ở 34% số trường hợp. Trước điều trị, tỷ lệ gặp bệnh nhân có triệu chứng khó thở (38,2%) và mức độ tổn thương rộng (58,8%) ở nhóm II cao hơn có ý nghĩa so với nhóm I (13,6%; p=0,005; 31,8%; p=0,009). Sau 2 tháng điều trị, tỷ lệ bệnh nhân có tăng cân và âm hóa đờm ở nhóm I (94,6%; 89,2%) cao hơn có ý nghĩa so với nhóm II (77,3%; p=0,047 và 63,6%; p=0,018); tỷ lệ bệnh nhân có tổn thương nốt ở nhóm I thấp hơn có ý nghĩa so với trước điều trị. Nồng độ 25(OH)D3 ở các bệnh nhân có mức độ tổn thương rộng (21,03 ± 7,36) thấp hơn có ý nghĩa so với các bệnh nhân có mức độ tổn thương hẹp (25,15 ± 5,49; p=0,036). Kết luận: Giảm nồng độ 25(OH)D3 gặp ở 34% số bệnh nhân lao phổi mới AFB(+). Sau 2 tháng điều trị, nhóm có nồng độ 25(OH)D3 bình thường có kết quả tốt hơn so với nhóm có nồng độ 25(OH)D3 giảm.
#Vitamin D #lao phổi
Nồng độ vitamin D huyết thanh ở bệnh nhân viêm da cơ địa
Mục tiêu: Xác định mối liên hệ giữa nồng độ vitamin D huyết thanh và đặc điểm lâm sàng trên bệnh nhân viêm da cơ địa. Đối tượng và phương pháp:  60 bệnh nhân viêm da cơ địa và 30 người đối chứng được thực hiện tại Bệnh viện Da Liễu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 10/2014 đến tháng 5/2015. Chẩn đoán bệnh viêm da cơ địa dựa vào tiêu chuẩn Hanifin & Rajka và độ nặng bệnh được chẩn đoán theo thang điểm SCORAD. Nồng độ vitamin D huyết thanh được định lượng bằng kỹ thuật xét nghiệm miễn dịch điện hóa huỳnh quang (ECLIA). Kết quả: Nồng độ vitamin D trung bình ở nhóm chứng (30,52 ± 8,80ng/mL) cao hơn nhóm bệnh (26,37 ± 11,51ng/mL) (p=0,08). Tỉ lệ bệnh nhân viêm da cơ địa thiếu vitamin D (< 20ng/mL) cao hơn gấp 2,75 lần so với nhóm chứng (36,7% và 13,3%). Có sự tương quan nghịch giữa nồng độ vitamin D và điểm số SCORAD (r = -0,65; p<0,001). Nồng độ vitamin D giảm dần theo độ nặng của bệnh (nhẹ: 40,91 ± 7,76ng/mL; trung bình: 28,43 ± 9,82ng/mL; nặng: 17,21 ± 6,11ng/mL) (p=0,00). Kết luận: Kết quả này cho thấy nồng độ vitamin D có liên quan đến độ nặng của bệnh viêm da cơ địa.
#Viêm da cơ địa #vitamin D huyết thanh #độ nặng #điểm số SCORAD
TÌNH TRẠNG VITAMIN A VÀ KẼM HUYẾT THANH Ở HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRƯỜNG DÂN TỘC BÁN TRÚ HUYỆN TỦA CHÙA, ĐIỆN BIÊN NĂM 2018
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 1 - 2022
Nghiên cứu cắt ngang, tiến hành năm 2018 trên 290 học sinh (HS) trung học cơ sở (THCS) của 04 trường phổ thông dân tộc bán trú huyện Tủa Chùa tỉnh Điện Biên, nhằm mô tả thực trạng thiếu vitamin A và thiếu kẽm huyết thanh. Kết quả cho thấy, tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng (VAD-TLS) là 9,7%; tỷ lệ nguy cơ VAD-TLS là 37,2%; nồng độ retinol trung bình (TB) là 1,11±0,3 mmol/L. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (YNTK) về tỷ lệ nguy cơ VAD-TLS, nồng độ retinol TB giữa các nhóm tuổi (p<0,001). Tỷ lệ thiếu kẽm là 73,4%; nồng độ kẽm huyết thanh TB là 9,21±1,65 mmol/L. Có sự khác biệt có YNTK về tỷ lệ thiếu kẽm, nồng độ huyết thanh TB giữa các nhóm tuổi (p<0,05). Tỷ lệ nguy cơ và VAD-TLS cao hơn ở học sinh suy dinh dưỡng (SDD) thấp còi, dân tộc H’mông, chưa dậy thì và học sinh nội trú. Học sinh nội trú có tỷ lệ thiếu kẽm cao hơn so với học sinh không nội trú. Do đó, để cải thiện tình trạng thiếu vitamin A, thiếu kẽm cần triển khai cải thiện tình trạng dinh dưỡng, nâng cao chất lượng bữa ăn của trẻ tại trường; lưu ý can thiệp theo tình trạng sinh lý của trẻ, đặc thù dân tộc, ưu tiên đối với học sinh dân tộc H’mông.
#thiếu kẽm #vitamin A #dân tộc #học sinh #trung học cơ sở #Điện Biên
Tổng số: 10   
  • 1