Vitamin d huyết thanh là gì? Các công bố khoa học về Vitamin d huyết thanh

Vitamin D huyết thanh điều chỉnh sự hấp thụ canxi và phốt pho, ảnh hưởng đến sức khỏe xương, hệ miễn dịch, nồng độ insulin, và hệ thần kinh. Có hai dạng chính: Vitamin D2 và D3, được đo bằng 25(OH)D. Vitamin D có thể tổng hợp qua ánh sáng mặt trời và từ thực phẩm. Thiếu hụt vitamin D gây nhiều bệnh lý như còi xương, loãng xương, tim mạch, đái tháo đường type 2, và rối loạn tự miễn dịch. Đo lường qua xét nghiệm máu và bổ sung dưới hướng dẫn y tế là cần thiết để duy trì sức khỏe toàn diện.

Giới thiệu về Vitamin D huyết thanh

Vitamin D huyết thanh là một trong những thành phần quan trọng trong cơ thể con người, giúp điều chỉnh sự hấp thụ canxi và phốt pho. Vitamin D không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của xương mà còn ảnh hưởng đến hệ miễn dịch, điều hòa nồng độ insulin, và góp phần vào sức khỏe hệ thần kinh.

Các dạng của Vitamin D huyết thanh

Vitamin D chủ yếu tồn tại dưới dạng hai chất: Vitamin D2 (ergocalciferol) và Vitamin D3 (cholecalciferol). Trong cơ thể, hai dạng này chuyển hóa thành 25-hydroxyvitamin D, còn gọi là 25(OH)D, là chỉ số chính để đo lượng vitamin D trong huyết thanh.

Nguồn cung cấp Vitamin D

Vitamin D có thể được tổng hợp tự nhiên trong da thông qua tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, đặc biệt là tia UVB. Ngoài ra, vitamin D cũng có thể được cung cấp qua chế độ ăn uống với các thực phẩm giàu vitamin D như cá hồi, cá thu, trứng, và sữa bổ sung vitamin D.

Tầm quan trọng của Vitamin D huyết thanh

Vitamin D huyết thanh đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì nồng độ canxi và phốt pho, là những khoáng chất cần thiết cho sự phát triển và bảo vệ của xương. Thiếu hụt vitamin D có thể dẫn đến các bệnh lý như còi xương ở trẻ em và loãng xương ở người lớn tuổi.

Hậu quả của thiếu hụt Vitamin D huyết thanh

Sự thiếu hụt Vitamin D huyết thanh có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, ngoài ảnh hưởng đến sức khỏe xương, thiếu hụt vitamin D còn liên quan đến một loạt các bệnh lý khác như bệnh tim mạch, đái tháo đường type 2, và các chứng rối loạn tự miễn dịch.

Cách đo lường và chuẩn đoán

Mức độ vitamin D trong huyết thanh được đánh giá thông qua xét nghiệm máu đo nồng độ 25(OH)D. Giá trị này giúp các bác sĩ đánh giá liệu một người có bị thiếu vitamin D hay không, từ đó đề xuất các biện pháp điều chỉnh phù hợp.

Biện pháp bổ sung Vitamin D huyết thanh

Việc bổ sung vitamin D có thể được thực hiện thông qua các chế độ dinh dưỡng bổ sung, sử dụng thực phẩm chức năng chứa vitamin D, hoặc điều chỉnh lối sống như tăng cường tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, việc bổ sung cần được thực hiện dưới sự hướng dẫn của chuyên gia y tế để tránh các nguy cơ ngộ độc vitamin D do dư thừa.

Kết luận

Vitamin D huyết thanh là yếu tố không thể thiếu cho sức khỏe toàn diện của con người. Hiểu biết và duy trì mức độ vitamin D hợp lý thông qua chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh có thể đem lại nhiều lợi ích sức khỏe dài lâu. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả, mọi biện pháp điều chỉnh và bổ sung vitamin D nên được tham khảo ý kiến chuyên gia y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vitamin d huyết thanh":

Mối Quan Hệ Giữa Mức Độ 25-Hydroxyvitamin D Trong Huyết Thanh và Nguy Cơ Bệnh Tăng Huyết Áp Dịch bởi AI
Hypertension - Tập 49 Số 5 - Trang 1063-1069 - 2007

Quá trình hydroxyl hóa 25(OH)D thành 1,25-dihydroxyvitamin D và tín hiệu thông qua thụ thể vitamin D diễn ra ở nhiều mô không điển hình liên quan đến cân bằng canxi. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm chỉ ra rằng 1,25-dihydroxyvitamin D ức chế biểu hiện renin và sự tăng sinh của tế bào cơ mạch máu; các nghiên cứu lâm sàng cho thấy có mối liên hệ nghịch giữa bức xạ tia cực tím, một chỉ số thay thế cho tổng hợp vitamin D, và huyết áp. Chúng tôi đã kiểm tra mối liên hệ độc lập giữa mức độ 25-hydroxyvitamin D trong huyết tương [25(OH)D] được đo và nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp mới xuất hiện cũng như mối liên hệ giữa mức độ 25(OH)D trong huyết tương dự đoán và nguy cơ tăng huyết áp. Hai nghiên cứu đoàn hệ tiềm năng với 613 nam giới từ Nghiên cứu Theo Dõi Chuyên Gia Y Tế và 1198 phụ nữ từ Nghiên cứu Sức Khỏe Y Tá có mức độ 25(OH)D được đo đã được theo dõi từ 4 đến 8 năm. Ngoài ra, 2 nghiên cứu đoàn hệ tiềm năng khác với 38,388 nam và 77,531 nữ với mức độ 25(OH)D dự đoán đã được theo dõi từ 16 đến 18 năm. Trong 4 năm theo dõi, nguy cơ tương đối đa biến của bệnh tăng huyết áp mới xuất hiện ở nam giới có mức 25(OH)D trong huyết plasma được đo <15 ng/mL (tức là thiếu vitamin D) so với những người có mức ≥30 ng/mL là 6.13 (khoảng tin cậy 95% [CI]: 1.00 đến 37.8). Đối với phụ nữ, so sánh tương tự cho ra nguy cơ tương đối là 2.67 (95% CI: 1.05 đến 6.79). Nguy cơ tương đối gộp lại giữa nam và nữ với mức 25(OH)D được đo sử dụng mô hình ngẫu nhiên là 3.18 (95% CI: 1.39 đến 7.29). Sử dụng mức 25(OH)D dự đoán trong các đoàn hệ lớn hơn, nguy cơ tương đối đa biến so với các thập phân thấp nhất và cao nhất lần lượt là 2.31 (95% CI: 2.03 đến 2.63) ở nam giới và 1.57 (95% CI: 1.44 đến 1.72) ở phụ nữ. Mức độ 25(OH)D trong huyết tương có mối liên hệ nghịch với nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp mới xuất hiện.

#25-hydroxyvitamin D; huyết áp; tăng huyết áp; vitamin D
Nồng độ Vitamin C trong huyết thanh ở mẫu cắt ngang của quần thể Đức Dịch bởi AI
Journal of International Medical Research - Tập 46 Số 1 - Trang 168-174 - 2018
Mục tiêu

Thiếu hụt Vitamin C được coi là rất hiếm gặp ở các quốc gia công nghiệp hiện đại. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá nồng độ Vitamin C trong quần thể Đức.

Phương pháp

Trong khuôn khổ một hội thảo tư vấn - bệnh nhân về dinh dưỡng và không dung nạp thực phẩm, các bệnh nhân được yêu cầu tham gia nghiên cứu này trên cơ sở tự nguyện. Mẫu máu được lấy để phân tích nồng độ Vitamin C trong huyết thanh và tất cả các bệnh nhân được yêu cầu hoàn thành một bảng câu hỏi. Nồng độ Vitamin C được xác định bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao.

Kết quả

Trong số khoảng 300 bệnh nhân tham dự hội thảo, 188 (62.6%) đồng ý tham gia phân tích mẫu máu Vitamin C và 178 (59.3%) đã hoàn thành bảng câu hỏi. Nồng độ Vitamin C trung bình là 7.98 mg/L (dao động, 0.50–17.40; khoảng tham chiếu, 5–15 mg/L). Mức độ huyết tương thấp với tình trạng thiếu Vitamin C (<5 mg/L) được phát hiện ở 31 bệnh nhân (17.4%), và tình trạng thiếu hụt tiềm năng gây scorbut (<1.5 mg/L) được phát hiện ở 6 bệnh nhân (3.3%).

Kết luận

Tình trạng thiếu hụt và thiếu hụt Vitamin C tiềm năng là khá phổ biến. Do đó, ngay cả trong các quần thể phát triển hiện đại, một số cá nhân có thể cần một lượng Vitamin C cao hơn.

#Vitamin C #thiếu hụt #huyết thanh #sắc ký lỏng hiệu năng cao #quần thể Đức
Sự liên kết lâm sàng và huyết thanh của mức plasma 25-hydroxyvitamin D (25(OH)D) trong bệnh lupus và hiệu quả ngắn hạn của việc bổ sung vitamin D đường uống Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC -
Tóm tắt Đặt vấn đề và mục tiêu

Dữ liệu về sự liên kết giữa mức vitamin D và hình thái lâm sàng cũng như hoạt động bệnh trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là gây tranh cãi. Hơn nữa, liều lượng tối ưu của việc bổ sung vitamin D đường uống trong SLE không rõ ràng. Do đó, nghiên cứu hiện tại được thiết kế để xác định sự liên kết giữa mức vitamin D trong huyết tương với hình thái lâm sàng, các biến bệnh và huyết thanh học trong một nhóm lớn bệnh nhân SLE từ Nam Á và đánh giá hiệu quả ngắn hạn của hai chế độ liều khác nhau của việc bổ sung vitamin D đường uống đối với các cơn bùng phát bệnh và mức vitamin D trong huyết tương.

Phương pháp

Đây là một nghiên cứu hai giai đoạn. Giai đoạn I là một nghiên cứu phân tích cắt ngang về các bệnh nhân từ miền bắc (26.85° Bắc) và miền nam Ấn Độ (11.94° Bắc). Mức plasma 25-hydroxyvitamin-D(25(OH)D) được đo lường và sự liên kết của nó với nhân khẩu học, huyết thanh học, hoạt động bệnh, Galectin-9 và CXCL-10 được phân tích. Trong giai đoạn II, những bệnh nhân có chỉ số SLEDAI-2KG < 10 và đang được kiểm soát miễn dịch ổn định được ngẫu nhiên để nhận hoặc liều cao (60.000 U*5 hàng tuần, tiếp theo là 60.000 U hàng tháng) hoặc liều thông thường (30.000 U hàng tháng) của vitamin D đường uống. Kết quả được đánh giá sau 6 tháng.

Kết quả

Giai đoạn I bao gồm 702 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 29.46 + 10.7 năm. Mức vitamin D trong huyết plasma trung bình là 22.83 (13.8–31.8) ng/ml. Thiếu hụt (< 20 ng/ml) được thấy ở 41.5% bệnh nhân. Bệnh nhân từ miền Nam Ấn Độ có mức vitamin D cao hơn (27.06 ± 20.21 ng/dl) so với miền Bắc Ấn Độ (17.15 ± 16.07 ng/ml) (p < 0.01). Phân tích đơn biến cho thấy sự tương quan âm yếu giữa vitamin D với SLEDAI2K và tương quan dương với độ tuổi. Galactin-9 có sự tương quan khiêm tốn với SLEDAI2K nhưng không với mức vitamin D. Trong hồi quy tuyến tính đa biến, nơi thu hút (β = 4.37) và độ tuổi (β = 0.18) dự đoán (p < 0.05) mức vitamin D trong huyết plasma.

Trong giai đoạn II, 91 bệnh nhân được ngẫu nhiên vào 2 nhóm đã hoàn thành 6 tháng. Sự thay đổi trung vị về mức vitamin D trong huyết plasma nhiều hơn ở nhóm liều cao (9.5 so với 2.6 ng/ml; p = 0.04). Có 14 cơn bùng phát SLE và sáu biến cố bất lợi nhỏ xảy ra cho cả hai nhóm.

Kết luận

Thiếu hụt vitamin D là phổ biến trong bệnh SLE. Vị trí địa lý nơi cư trú là yếu tố chính quyết định hơn là hoạt động bệnh. Các protein điều hòa IFN phản ánh hoạt động bệnh mà không phụ thuộc vào mức vitamin D. Việc bổ sung vitamin D đường uống liều cao dường như an toàn và hiệu quả hơn trong việc cải thiện mức vitamin D trong SLE.

Đăng ký thử nghiệm

Giai đoạn thứ hai của nghiên cứu này đã được đăng ký là nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng CTRI/2019/06/019658 [được đăng ký vào: 14/06/2019].

#Vitamin D #bệnh lupus ban đỏ hệ thống #huyết thanh học #bổ sung đường uống #SLEDAI #hiệu quả ngắn hạn
Nghiên cứu nồng độ vitamin D và IL-17 huyết thanh trước và sau điều trị và mối liên quan của chúng với biểu hiện lâm sàng ở bệnh nhân trứng cá thông thường mức độ trung bình và nặng
Mục tiêu: Xác định nồng độ vitamin D (Vit D) và IL-17 huyết thanh ở bệnh nhân trứng cá thông thường (TCTT) mức độ trung bình và nặng trước và sau điều trị bằng uống isotretinoin và vitamin D;  phân tích mối liên quan của chúng với biểu hiện lâm sàng của bệnh. Đối tượng và phương pháp: 70 bệnh nhân TCTT mức độ trung bình và nặng điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh và 70 người đối chứng khoẻ mạnh. Phương pháp tiến cứu, mô tả cắt ngang có đối chứng. Kết quả: Nồng độ vitamin D và IL-17 ở bệnh nhân TCTT mức độ trung bình và nặng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với người khoẻ mạnh đối chứng và liên quan có ý nghĩa thống kê với giới tính, độ tuổi, thói quen sử dụng kem chống nắng, nhưng không khác biệt theo mức độ nặng của bệnh trứng cá. Sau điều trị, nồng độ Vit D huyết thanh tăng và IL-17 huyết thanh giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị ở cả nhóm sử dụng isotretinoin phối hợp vitamin D đường uống lẫn nhóm chỉ sử dụng isotretinoin đơn thuần, tuy nhiên không có sự khác biệt khi so sánh 2 nhóm này sau điều trị với nhau. Kết luận: Nồng độ vitamin D và IL-17 huyết thanh ở bệnh nhân TCTT mức độ trung bình và nặng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm người khoẻ mạnh. Có sự thay đổi nồng độ vitamin D và IL-17 huyết thanh trước và sau điều trị với Isotretinoin và vitamin D đường uống.
#Bệnh trứng cá thông thường #vitamin D #IL-17
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG THIẾU VITAMIN D3 (25-OH) HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN ĐAU CỘT SỐNG THẮT LƯNG MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả hình ảnh siêu âm Doppler xuyên sọ (TCD) trong chẩn đoán dị dạng thông động-tĩnh mạch não (AVM) ở bệnh nhân chảy máu não do vỡ dị dạng thông động-tĩnh mạch não. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán là dị dạng thông động-tĩnh mạch não có biến chứng chảy máu có làm siêu âm Doppler xuyên sọ được điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai từ 10/2019 đến 07/2021. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân AVM vỡ là 43±14,7 tuổi, tỷ lệ nam/nữ = 1,27/1. Bệnh nhân vào viện vì buồn nôn, nôn chiếm tỷ lệ 97,2%, đau đầu chiếm 94,4%, liệt nửa người chiếm 50%. TCD phát hiện động mạch nuôi ổ dị dạng so với phương pháp chụp mạch đạt 65%. Nguồn cấp máu cho ổ dị dạng từ động mạch não giữa chiếm 52,78%. Ổ dị dạng được nuôi bằng 1 đến 3 cuống nuôi (chiếm 91,67%), ổ dị dạng có một tĩnh mạch dẫn lưu duy nhất chiếm 72,2% và là những ổ dễ vỡ. Tỷ lệ phát hiện được dị dạng động mạch não giữa trên siêu âm Doppler xuyên sọ chiếm 89,47%. Siêu âm Doppler xuyên sọ có tỷ lệ phát hiện ổ dị dạng có kích thước trung bình và lớn lần lượt là 93,75% và 100%. Tốc độ dòng chảy bên nuôi ổ dị dạng của động mạch não giữa có tốc độ tăng hơn bên đối diện. Kết luận: Độ tuổi hay gặp nhất của các bệnh nhân AVM vỡ là trên 40 tuổi chiếm tỷ lệ 63,9%; tuổi trung bình 43 ± 14,7. Bệnh gặp ở cả hai giới với tỷ lệ nam/nữ là 1,27/1. Động mạch não giữa tham gia cấp máu cho ổ dị dạng chiếm 52,78%. TCD là phương pháp hữu ích để chẩn đoán các dị dạng thông động tĩnh mạch não nó có độ nhạy cao với các AVM có kích thước trung bình và lớn.
#Dị dạng thông động tĩnh mạch não vỡ #siêu âm Doppler xuyên sọ
Mối quan hệ giữa vitamin D huyết thanh và hồ sơ hormone tuyến giáp ở bệnh nhân nam phụ thuộc rượu Dịch bởi AI
BMC Psychiatry -
Tóm tắt Thông tin nền

Sự phụ thuộc vào rượu (AD) dẫn đến một số vấn đề y tế bao gồm thiếu vitamin D và rối loạn chức năng tuyến giáp. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai biến chứng này vẫn còn chưa rõ ràng. Mục tiêu của nghiên cứu này là khám phá mối quan hệ giữa vitamin D huyết thanh và hồ sơ hormone tuyến giáp ở bệnh nhân nam mắc AD.

Phương pháp nghiên cứu

Tổng cộng có 117 bệnh nhân nam mắc AD đã được khảo sát. Thiếu vitamin D được định nghĩa là nồng độ vitamin D huyết thanh chính là 25-hydroxy vitamin D [25(OH)D] dưới 50 nmol/L. Các bệnh nhân AD được chia thành hai nhóm theo đó: 46 bệnh nhân có mức vitamin D bình thường (nhóm bình thường) và 71 bệnh nhân bị thiếu vitamin D (nhóm thiếu). Mức độ hồ sơ hormone tuyến giáp bao gồm triiodothyronine toàn phần 3 (TT3), thyroxine toàn phần 4 (TT4), hormone kích thích tuyến giáp (TSH), triiodothyronine tự do (fT3) và thyroxine tự do (fT4) giữa hai nhóm đã được so sánh. Mối tương quan giữa mức 25(OH)D huyết thanh và hồ sơ hormone tuyến giáp được đánh giá bằng phân tích tương quan đơn giản (tương quan Pearson) và phân tích đa biến bằng các mô hình hồi quy tuyến tính.

Kết quả

Tỷ lệ thiếu vitamin D ở bệnh nhân nam mắc AD là 60.7% (71/117; khoảng tin cậy 95%: 51.6–69.1%). Hơn nữa, các mức TT3 huyết thanh (t = -2.682, p = 0.009), TT4 (t = -2.033, p = 0.044), fT3 (t = -2.986, p = 0.003), và fT4 (t = -2.558, p = 0.012) trong nhóm thiếu đều cao hơn đáng kể so với nhóm bình thường. Phân tích sức mạnh hậu kiểm cho thấy sức mạnh cho fT3 là đủ (sức mạnh > 0.80). Hơn nữa, phân tích đơn biến cho thấy rằng các mức vitamin D huyết thanh có tương quan âm với mức TT3 (r = -0.189, p = 0.044), fT3 (r = -0.350, p < 0.001), và fT4 (r = -0.198, p = 0.033), trong khi phân tích đa biến cho thấy chỉ fT3 là liên quan độc lập với mức vitamin D huyết thanh ở bệnh nhân nam mắc AD.

KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG THIẾU VITAMIN D3 (25-OH) HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN ĐAU CỘT SỐNG THẮT LƯNG MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 1 - 2021
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tình trạng thiếu Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh ở bệnh nhân đau cột sống thắt lưng mạn tính. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có so sánh nội nhóm trên 82 bệnh nhân đau cột sống thắt lưng mạn tính. Kết quả: Tỷ lệ nữ/nam là 2,9/1;  tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 67,6 ± 12,7 tuổi. Nồng độ Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh trung bình là 19,8 ± 7,7 ng/ml; trong đó tỷ lệ bệnh nhân thiếu nặng chiếm 53,7% và thiếu vừa là 39,0%. Mức độ thiếu Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh liên quan có ý nghĩa thống kê với p<0,05 bao gồm: giới tính, tình trạng hút thuốc lá, tình trạng uống rượu (ở nam giới), triệu chứng yếu cơ trên lâm sàng, mức độ hạn chế sinh hoạt (chỉ số Oswestry), giảm mật độ xương cột sống ở nữ giới. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tình trạng thiếu Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh ở bệnh nhân đau cột sống thắt lưng mạn tính rất phổ biến và có liên quan với một số triệu chứng cơ năng của bệnh.
#vitamin D #đau cột sống thắt lưng
Sự ức chế oxy hóa cholesterol huyết thanh bởi việc tiêu thụ vitamin C và selenium qua chế độ ăn giàu chất béo ở chuột được nuôi bằng chế độ ăn này Dịch bởi AI
Lipids - Tập 43 - Trang 383-390 - 2008
Các sản phẩm oxy hóa cholesterol (COPs) đã được coi là các dấu hiệu đánh dấu trạng thái oxy hóa cụ thể trong cơ thể sống. Trong nghiên cứu này, trạng thái oxy hóa gia tăng đã được gây ra ở chuột Wistar bằng cách cho chúng ăn một chế độ ăn giàu chất béo (chế độ ăn cafeteria). Một nhóm động vật khác nhận được cùng loại chế độ ăn nhưng được bổ sung một sự kết hợp của hai chất chống oxy hóa khác nhau, axit ascorbic (100 mg/kg chuột/ngày) và natri selenit (200 µg/kg chuột/ngày), và một nhóm thứ ba được cho ăn chế độ ăn kiểm soát. Phân tích tổng và từng COPs riêng lẻ của các chế độ ăn khác nhau không cho thấy sự khác biệt giữa chúng. Vào cuối thử nghiệm, chuột đã bị hiến tế và cholesterol huyết tương, triglycerides và COPs đã được đo. Không chế độ ăn nào gây ra sự thay đổi trong cân nặng cơ thể của chuột, cũng như mức cholesterol và triglycerides tổng. Tổng COPs huyết thanh ở chuột ăn chế độ ăn giàu chất béo là 1.01 µg/ml, gấp hai lần lượng của chuột kiểm soát (0.47 µg/ml). Khi bổ sung chất chống oxy hóa trong chế độ ăn, nồng độ tổng COPs huyết thanh (0.44 µg/ml) cho thấy mức độ tương tự như những con chuột ăn chế độ ăn kiểm soát. 7β-hydroxycholesterol, được hình thành không qua enzym qua quá trình oxy hóa cholesterol trong sự hiện diện của các loài oxy phản ứng, cho thấy giá trị thấp hơn một chút ở những động vật được bổ sung chất chống oxy hóa so với những con chuột kiểm soát. Nghiên cứu này xác nhận tầm quan trọng của các chất chống oxy hóa trong chế độ ăn như những yếu tố bảo vệ chống lại sự hình thành oxysterols.
#cholesterol #oxy hóa #chất chống oxy hóa #vitamin C #selenium #chuột Wistar #chế độ ăn giàu chất béo
Bước đầu nghiên cứu nồng độ vitamin D huyết thanh và ảnh hưởng đến kết quả điều trị ở bệnh nhân lao phổi mới AFB(+) tại Bệnh viện 74 Trung ương
Mục tiêu: Nghiên cứu nồng độ 25(OH)D3 trong huyết thanh và ảnh hưởng đến kết quả sau 2 tháng điều trị thuốc kháng lao ở bệnh nhân lao phổi mới AFB(+). Đối tượng và phương pháp: 100 bệnh nhân lao phổi mới AFB(+) tại Bệnh viện 74 Trung ương từ tháng 6 - tháng 12/2017, gồm 2 nhóm: Nhóm có nồng độ 25(OH)D3 bình thường (nhóm I) và nhóm có nồng độ 25(OH)D3 giảm (nhóm II). Kết quả: Giảm nồng độ 25(OH)D3 trong huyết thanh đã gặp ở 34% số trường hợp. Trước điều trị, tỷ lệ gặp bệnh nhân có triệu chứng khó thở (38,2%) và mức độ tổn thương rộng (58,8%) ở nhóm II cao hơn có ý nghĩa so với nhóm I (13,6%; p=0,005; 31,8%; p=0,009). Sau 2 tháng điều trị, tỷ lệ bệnh nhân có tăng cân và âm hóa đờm ở nhóm I (94,6%; 89,2%) cao hơn có ý nghĩa so với nhóm II (77,3%; p=0,047 và 63,6%; p=0,018); tỷ lệ bệnh nhân có tổn thương nốt ở nhóm I thấp hơn có ý nghĩa so với trước điều trị. Nồng độ 25(OH)D3 ở các bệnh nhân có mức độ tổn thương rộng (21,03 ± 7,36) thấp hơn có ý nghĩa so với các bệnh nhân có mức độ tổn thương hẹp (25,15 ± 5,49; p=0,036). Kết luận: Giảm nồng độ 25(OH)D3 gặp ở 34% số bệnh nhân lao phổi mới AFB(+). Sau 2 tháng điều trị, nhóm có nồng độ 25(OH)D3 bình thường có kết quả tốt hơn so với nhóm có nồng độ 25(OH)D3 giảm.
#Vitamin D #lao phổi
Đánh giá mối liên hệ giữa mức vitamin D3, hormone cận giáp, và protein phản ứng C trong huyết thanh ở bệnh nhân có cơn tâm thần cấp tính: một nghiên cứu cắt ngang tại trung tâm tuyến ba ở Iran Dịch bởi AI
BMC Psychiatry - Tập 23 - Trang 1-9 - 2023
Tác động lớn của vitamin D đối với sự phát triển não bộ và mối quan hệ của nó với các dấu hiệu viêm trong quá trình lâm sàng của các rối loạn tâm thần đã buộc các nhà nghiên cứu phải điều tra mối liên hệ tiềm năng giữa mức độ vitamin D, mức độ protein phản ứng C (CRP) và tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhằm so sánh các mức vitamin D trong huyết thanh và các dấu hiệu liên quan, bao gồm canxi, photpho và hormone cận giáp (PTH), cùng với CRP, ở 3 nhóm bệnh nhân có các cơn tâm thần cấp tính, bao gồm tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực, và rối loạn tâm thần do ma túy methamphetamine, so với nhóm điều khiển chuẩn của dân số Iran. Nghiên cứu mô tả cắt ngang này được tiến hành tại một bệnh viện tâm thần ở Tehran, Iran, với tổng cộng 185 đối tượng. Các đối tượng bao gồm bốn nhóm: giai đoạn cấp tính của bệnh tâm thần phân liệt (n = 49), các cơn hưng cảm cấp tính của rối loạn lưỡng cực (n = 43), rối loạn tâm thần do methamphetamine gây ra (n = 46), và nhóm đối chứng (n = 47). Trong số 138 bệnh nhân có cơn tâm thần cấp tính, 33 bệnh nhân đang ở cơn tâm thần đầu tiên, trong khi 105 bệnh nhân đang trong cơn kịch phát cấp tính của các rối loạn tâm thần mạn tính. Thang đo Đánh giá Tâm thần Ngắn (BPRS) đã được một bác sĩ tâm thần chuyên môn thực hiện cho tất cả bệnh nhân. Sau đó, mức độ canxi, photpho, hormone cận giáp, vitamin D và CRP trong huyết thanh đã được đánh giá ở tất cả các nhóm nghiên cứu. Trong 185 đối tượng nghiên cứu, quan sát cho thấy những người có trình độ học vấn cao hơn và những người đã kết hôn có tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần thấp hơn. Trong tất cả các nhóm bệnh nhân, các mức CRP trong huyết thanh cao hơn một cách đáng kể, và các mức PTH thấp hơn một cách đáng kể so với nhóm kiểm soát (p < 0.001). Các mức canxi, photpho, và vitamin D trong huyết thanh không khác biệt một cách có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm bệnh nhân và nhóm đối chứng của nghiên cứu. Ở những bệnh nhân tâm thần mạn tính, mức CRP cao hơn một cách đáng kể (p < 0.031), và mức vitamin D thấp hơn một cách đáng kể (p < 0.044) so với những bệnh nhân có cơn tâm thần lần đầu. Nghiên cứu này gợi ý rằng mức CRP cao hơn một cách đáng kể và mức PHT thấp hơn một cách đáng kể ở những bệnh nhân tâm thần cấp tính. Hơn nữa, mức vitamin D thấp hơn một cách đáng kể ở những bệnh nhân tâm thần mạn tính so với bệnh nhân có cơn tâm thần lần đầu.
#vitamin D #hormone cận giáp #protein phản ứng C #tâm thần phân liệt #rối loạn lưỡng cực #rối loạn tâm thần do methamphetamine #nghiên cứu cắt ngang
Tổng số: 24   
  • 1
  • 2
  • 3